Tất cả thành phần thuốc va đập cần phải lấy với tỷ lệ
nhất định và với lượng nhất định kết tinh (cỡ hạt); chúng cần phải được trộn
cẩn thận với nhau để thu được hỗn hợp đồng nhất hơn. Độ nhạy và khả năng mồi
cháy của thuốc va đập phụ thuộc vào độ đồng nhất đó.
1) Thuốc va đập có tính nổ phá càng nhỏ thì khả năng
mồi cháy càng lớn vì thời gian kéo dài của ngọn lửa lớn hơn;
2) Áp suất tạo ra bởi sản phẩm nổ càng lớn và nhiệt độ
của chúng càng cao thì khả năng mồi cháy của hạt lửa càng lớn vì lúc này tốc độ
mồi cháy sẽ lớn hơn;
3) Lượng thuốc nổ phá nhỏ nhất tỏa ra nhiệt lượng lớn
nhất và các sản phẩm cháy rắn có nhiệt độ lớn nhất;
4) Thành phần thuốc va đập chứa lượng thuốc gợi nổ lớn
hơn sẽ cho tính nổ phá lớn nhất;
5) Tia lửa do thuốc va đập của hạt lửa tạo ra càng dài
thì độ tin cậy mồi cháy liều phóng càng cao.
Trên thực tế tăng độ dài tia lửa của hạt lửa thường
khó khăn do thuốc va đập chứa nhiều thuốc nổ phá thì ngọn lửa dài nhất, thuốc
va đập này khi cháy tạo ra lượng hạt rắn nhỏ hơn.
Thuốc va đập đầu tiên được ứng dụng năm 1816 để mồi
cháy thuốc phóng trong vũ khí cầm tay là hỗn hợp muối clorat với lưu huỳnh và
than, ví dụ như:
KClO3 ................................70,6%
Lưu huỳnh..........................17,6%
Than....................................11,8%
Cũng có loại thuốc là hỗn hợp của KClO3 với
ăngtimon trisunfua Sb2S3 hoặc gọi cách khác là ăngtimon
sunfua.
Năm 1816. Rait (người Anh) sử dụng thủy ngân fuminat
làm một trong các thành phần của thuốc va đập nhưng loại thuốc va đập này rất
nguy hiểm do thuốc này có độ nhạy va đập và ma sát cao.
Thủy ngân fuminat được ứng dụng rộng rãi trong hỗn hợp
thuốc hạt lửa bắt đầu từ năm 1813 ở nước ngoài; giữa thế kỷ XIX nó bắt đầu được
sử dụng ở Nga.
Trong hỗn hợp đầu tiên người ta dùng hỗn hợp thủy ngân
fuminat và KNO3 lưu huỳnh và thuốc đen. Sau đó KNO3 được
thay thế bởi KClO3. Ngay sau đó người ta không dùng lưu huỳnh nữa,
vì trong đó thường chứa vết không đáng kể axit sunfuric và axit sunfurơ, các
axit này có thể dẫn đến sự tự bốc cháy thuốc khi bảo quản. Ngày nay người ta
rất ít khi sử dụng lưu huỳnh để làm thuốc va đập, thường là trong thuốc cọ xát.
Để thay thế cho lưu huỳnh người ta thường dùng
ăngtimon trisunfua Sb2S3 hay gọi cách khác là ăngtimon
sunfua.
Ngày nay, thuốc va đập tạo thành từ hỗn hợp 3 thành
phần: KClO3, thủy ngân fuminat Hg(ONC)2 và ăngtimon
sunfua Sb2S3 với tỷ lệ khác nhau.
Thủy ngân fuminat và kali clorat được sản xuất trong
các nhà máy, ăngtimon sunfua có thể lấy trong tự nhiên thường gặp ở dạng quặng.
Trong hỗn hợp nó chỉ được dùng khi đã nghiền nhỏ. Ăngtimon sunfua nhân tạo bằng
cách kết tủa hoặc bằng cách đun nóng chảy ăngtimon với lưu huỳnh không nên sử
dụng để làm thuốc va đập, vì nó chứa lượng lớn lưu huỳnh tự do.
Trong hỗn hợp thuốc va đập thủy ngân fuminat là thuốc
gợi nổ, KClO3 là chất oxy hóa và Ăngtimon sunfua là chất cháy.
Để tăng độ nhạy đôi khi người ta cho vào trong thuốc
bột thủy tinh và bột mài (đá nhám), để giảm độ nhạy và làm chất kết dính người
ta cho vào đó giêlatin (keo xương), cánh kiến, gôm arabic và các loại nhựa nhân
tạo. Để tăng ngọn lửa và tăng lượng hạt rắn trong sản phẩm cháy của thuốc va
đập người ta cho thêm than cốc vào ăngtimon sunfua.
Ngày nay thuốc va đập tốt nhất là được chế tạo không
có các chất phụ gia làm phức tạp quá trình sản xuất. Đặc biệt nên tránh sử dụng
thủy tinh trong thuốc va đập vì nó làm tăng nguy cơ mất an toàn trong sản xuất.
Độ nhạy của hỗn hợp thay đổi tùy thuộc vào mức độ nghiền nhỏ ăngtimon sunfua vì
đây là chất rất cứng tinh thể có cạnh sắc.
Với mỗi loại hạt lửa người ta quy định tỷ lệ phần
trăm, cỡ hạt của KClO3 và chủ yếu là ăngtimon sunfua. Để tính tỷ lệ
phần trăm của một loại hỗn hợp thường xuất phát từ phản ứng phân hủy nhưng thực
tế tỷ lệ này có thể thay đổi tùy vào công dụng hoặc loại hạt lửa.
Trong bảng 1 là một số thành phần thuốc va đập đã và
đang được ứng dụng trong các loại hạt lửa khác nhau.
Bảng 1
Thành phần thuốc va đập dùng fuminat và clorat (%)
Công dụng hoặc loại hạt
lửa
|
Hg(ONC)2
|
KClO3
|
Sb2S3
|
Bột kính
|
Giêlatin (keo xương)
|
Hạt lửa đạn súng trường
|
16,7
|
55,5
|
27,8
|
-
|
-
|
Hạt lửa đạn súng lục “Nagan”
|
25,8
|
37,1
|
37,1
|
-
|
-
|
Hạt lửa súng săn “Gievelo” (gần giống KBM-3)
|
50,0
|
33,0
|
17,0
|
-
|
-
|
Hạt lửa đạn đại bác
|
25,0
|
45,0
|
30,0
|
-
|
-
|
Hạt lửa “Montecristo”
|
16,0
|
50,0
|
34,0
|
-
|
-
|
Hạt lửa “Kane”
|
30,0
|
50,0
|
20,0
|
-
|
-
|
Hạt lửa súng “Martin- Henri
|
37,5
|
37,5
|
34,0
|
-
|
-
|
Hạt lửa súng trường “Maliche”
|
13,7
|
41,5
|
33,4
|
10,7
|
0,7
|
Dùng cho bộ lửa
|
50,0
|
25,0
|
25,0
|
-
|
-
|
nt
|
33,9
|
21,6
|
-
|
1,3
|
43,2
|
Hỗn hợp fuminat và clorat với ăngtimon sunfua khá nhạy
với va đập và đâm chọc, an toàn khi sản xuất, tạo ra ngọn lửa cần thiết để mồi
cháy và bền vững khi bảo quản.
Hạn chế lớn nhất của nó là chúng có khả năng tác
dụng với một số kim loại mà sản phẩm cháy của chúng tác động lên nòng súng và
vỏ đạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét